Huyện Mộc Hóa là vùng đất có sự hiện diện của con người rất
sớm, có niên đại vào khỏang 2.800 năm thuộc thời kỳ tiền sử. Đầu thời kỳ Óc Eo
(tức là nền văn hóa Óc Eo Phù Nam) nhiều di chỉ đã tìm thấy ở Gò Gòn, Gò Hang,
Gò Vĩnh Châu (huyện Tân Hưng), Gò Dung (huyện Tân Thạnh) Chùa Nổi (huyện Vĩnh
Hưng) Gò Đế (thị xã Kiến Tường) có niên đại từ thế kỷ I – thế kỷ VIII sau công
nguyên. Sau đó vùng đất này trải qua hàng thế kỷ - hoang sơ không người ở.
Vào đầu thế kỷ 18 Cha ông ta từ miền Trung lánh nạn chiến
tranh, áp bức bóc lọt, phong kiến, đi tìm đất sống đến vùng đất này để khẩn
hoang, từng nhóm cá thể, thời chúa Nguyễn. Vào cuối thế kỷ XVIII sau khi đánh
bại nhà Tây Sơn các vua quan nhà Nguyễn tổ chức chiêu mộ dân từ miền ngoài, đưa
vào đây khẩn hoang, lập ấp, lập đồn điền, giữa vùng đầm lầy hoang vu và hiểm
trở.
Dân cư huyện Mộc Hóa và cả vùng Đồng Tháp Mười được hình
thành và phát triển chủ yếu từ các hình thức di dân là chính. Dân cư có đức
tính lao động cần cù, chịu khó với lao động nông nghiệp là nghề sản xuất chính,
chiếm trên 70% lao động của nền kinh tế, lao động ngành nghề khác chiếm khoảng
30%.
Huyện Mộc Hóa
với 29.764,25 ha diện tích tự nhiên,
29.853 nhân khẩu và có 07 đơn vị hành chính cấp xã, gồm các xã Tân Lập, Bình
Hòa Tây, Bình Hòa Đông, Bình Phong Thạnh, Bình Hòa Trung, Tân Thành và Bình
Thạnh. Trên địa bàn huyện có 04 dân
tộc sinh sống (Kinh, Hoa, Khơ-me, Chăm. Các tôn giáo chính ở huyện gồm: Cao đài Chơn lý, Cao Đài Tây Ninh, Công
Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Phật Giáo chiếm 0.05% dân số.
Các ngành nghề truyền thống địa phương:
Mộc Hóa có nhiều ngành
nghề thủ công như: nghề đóng ghe, nghề đương đệm bàng, nghề làm mắm, ủ nước
mắm, nghề đương các dụng cụ bắt cá…đã tồn tại rất lâu và nuôi sống người dân.
a. Nghề đóng ghe, xuồng: Trong quá trình khai phá đất
đai, với điều kiện của vùng sông nước, phương tiện giao thông đi lại, vận
chuyển lương thực, thực phẩm, lại chuyên nghề đánh bắt thủy sản. Do đó, phương
tiện giao thông đường thủy là cần thiết đối với mọi người, từ đó hình thành
nghề đóng ghe lườn, xuồng ba lá không chỉ phục vụ nhân dân địa phương mà còn
đáp ứng nhu cầu cho nhiều nơi khác. Nghề đóng ghe lườn Mộc Hóa có nét riêng cho
sản phẩm mình và trong quá trình vận chuyển thủy sản đi tốc độ nhanh, nhảy sóng
giỏi, chạy buồm tốt. đối với xuồng ba lá rất thuận lợi cho công việc giăng câu,
đặt lọp, đi ruộng.
b. Nghề đương đệm bàng:
Câu ca dao:
“Em người con gái Bắc Chan,
Lấy chồng Tân lập, đêm đêm giã bàng”
Hay: “Anh đi ghe cá mũi son,
Để am đương đệm cho mòn ngón tay”
Những câu ca dao trên đã phản ánh sinh hoạt của vùng nông
thôn ở vùng Đồng Tháp Mười khi xưa; chồng đi nghe, vợ ở nhà ngoài việc đồng áng
còn thêm nghề đương đệm, là cách gọi chung nghề dùng cọng bàng phơi khô, đập
dẹp để đương các đồ dùng như: đệm nằm ngũ, phơi lúa, làm buồm nghe, cà ròn dựng
nông sản, bao đựng muối hoặc các loại khác như: nón, túi xách đi chợ, cặp học
sinh, nốp để ngũ…Khác với dệt chiếu, đương đệm không dùng khung mà công cụ chủ
yếu làm bằng tay, đôi bàn tay khéo léo của người đan quyết định tính thẩm mỹ
của chiếc đệm được đương theo một người hoặc nhóm người tùy theo khổ đệm và sự
phân công lao động của gia đình.
c. Nghề cá: Do nguồn cá ở Mộc Hóa rất nhiều nên nghề đánh, bắt cá vùng này có
nhiều hình thức:
Nghề đặt lọp: Lọp là dụng cụ dùng đặt cá phổ biến trên
đồng, với nguyên tắc đặt ngược dòng nước chảy. Có 2 cách đặt lọp: đặt lọp lùi
tức vén cỏ, đặt lọp xuống để lú đáp lợp lên cho cá vào không bị chết, hoặc đặt
lọp có ven đăng (Đăng làm bằng tre dài khoảng 2m, thân tròn nhỏ, người ta dùng
dây chạy để bện lại thành từng tấm dài), người ta thường cắm một hàng đăng dài
từ 4 – 5m đặt 1 lọp. Lọp thường đặt bắt cá lóc, tôm, rắn…những người đặt nhiều
lọp mỗi ngày giở khoảng 100 lọp.
Nghề đặt lờ: sau nghề lọp, nghề đặt lờ góp phần không
nhỏ trong thu nhập của người dân, lờ thường được đặt ở luồng nước chảy, trên
cánh đồng ngập nước, ở những vùng trấp nước cao khoảng 50 – 60 cm, lờ bánh ú
thường bắt cá rô, cá sặt…Một hộ thường đặt vài trăm lờ, tuy số lượng cá ít
nhiều nhưng số lượng lờ nhiều cũng thu nhập khá cao.
Nghề đặt xà di: là dụng cụ chuyên bắt cá rô, khi đặt
xà di người ta móc một lỗ hoặc lấy gót chân ấn lỗ xuống đất, bỏ lúa vào lỗ rồi
đặt xà di dựng đứng trên lỗ, khi cá rô vào ăn lúa xong, lên ngóp sẽ chui vào xà
di. Xà di được bện bằng kẽm hoặc dây đồng nên việc di chuyển rất thuận lợi, khi
chở trên xuồng, người ta lấy hom ra đè dẹp xà di xuống để chở được nhiều, không
cồng kềnh, lúc đặt sẽ mở tròn gắn hom vào.
Nghề đặt ống trúm: là dụng cụ chuyên bắt lươn, trúm
thường đặt vào đầu mùa nước nổi hoặc mùa tát đìa. Đầu mùa nước nổi lươn theo
nước để ăn trùn, dế ở độ sâu 4 – 5 tấc. Người đặt trúm phải theo nước, nước lên
đến đâu đặt trúm đến đó, đặt trúm người dân sử dụng mồi cá hoặc trùn nấu nhồi
với bùn đất, vo thành cục tròn, sao cho dẻo thấm nước, tan dần, ống trúm được
chở bằng xuồng hoặc cộ để đi đặt và phải đặt hết ống trúm trước khi trời tối để
sáng hôm sau đi giở.
Nghề chất chà: Khi mùa nước nổi kết thúc thì bắt đầu
nghề chất chà, người ta thường chất chà thành hình chữ nhật hoặc hình vuông,
to, nhỏ khác nhau tùy nơi. Có 2 cách chất chà: cắm những nhành chà xuống đất
theo thứ tự hoặc làm khuôn bao quanh và ném những nhánh chà lộn xộn vào. Vào
những ngày 10 hoặc 25 âm lịch lúc nước kém, người ta giở chà bắt cá. Khi nước
vừa đứng, người ta dùng lưới bao quanh đóng chà lại, đem những nhánh chà ra,
gom đăng hay lưới thành diện tích nhỏ và dùng vợt xúc cá đổ lên xuồng hoặc ghe,
chất chà là nguồn thu hoạch cá rất lớn ở vùng Đồng Tháp Mười.
Nghề đóng đáy: Vào mùa lũ việc đóng đáy được thực hiện
liên tục, do nước đổ về và mang theo nhiều cá các lọai nên nghề đóng đáy thu
hoạch rất cao. Miệng đáy được đương rất to, chỉ túm lại dần ở phần đáy, cuối
miệng đáy có đặt đục để hứng cá , bốn góc miệng đáy được cột vào cột đáy cắm ở
sông bằng cây cao, có những thùng phuy làm bè đóng đáy thu được đủ loại cá,
tôm, cua…khi mùa lũ là mùa cá linh rất nhiều nên người ta thường làm mắm và ủ
nước mắm.
Nghề câu có nhiều loại: câu rê, câu nhấp, câu
giăng, câu cắm…câu rê có cần bằng tre, trúc dài khoảng 3- 3,5m, có dây dài gấp
2-3 lần cần câu, lưỡi câu móc mồi nhái, cá nhỏ hoặc thằn lằn, câu nhấp cũng
giống như câu rê nhưng dây ngắn hơn, thường câu ở bàu, đìa. Câu cắm: cần làm
bằng tre, trúc dài trên dưới 1m, được cắm trên đồng hoặc theo các bờ đìa, ao.
Câu giăng thường có đường dây dài, tùy theo nước và cá mà móc mồi khác nhau,
lưỡi câu cũng thay đổi, người giăng câu phải có kinh nghiệm, không chỉ biết lúc
nào nên sử dụng loại câu gì, mồi gì mà còn phải biết luồng, hướng cá đi.
Ngoài nghề đánh bắt cá còn có nghề giăng lưới, chày, và tác
đìa, gác cu, bắt trích, cúm núm…cũng đem lại nguồn thu nhập.
Ngày nay, chỉ
còn một số nghề còn tồn tại như: đan đệm, giăng lưới, giăng câu (mùa nước nổi),
nghề chất chà…nhưng không nhiều trong các hộ dân vì lượng cá ít đi nhiều